Theo TS Trần Đình Thiên, hiện nay nói về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt thì có không nhiều doanh nghiệp lớn, đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam và cạnh tranh trên trường quốc tế.
Ông này cho rằng, Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do song và đa phương thế hệ mới (FTAs) nhưng doanh nghiệp ngoại 100% vốn FDI vào và chủ yếu họ hưởng lợi.
Ông Thiên nói, nếu nói đến doanh nghiệp Việt, chúng ta phải đặt lại câu hỏi Việt Nam thực sự có một lực lượng doanh nghiệp Việt hay không hay chỉ có tập hợp các doanh nghiệp khác chuỗi sản xuất, khác chuỗi giá trị nhưng cùng đặc điểm, nhỏ bé, sống tách biệt và không phụ thuộc nhau?
"Hiện hơn 65% doanh nghiệp là siêu nhỏ - không thể định nghĩa được, chớp mắt một cái họ đã biến thể khác không nhìn thấy được. Tại sao doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tỷ lệ lớn như vậy? Chúng ta phải tìm ra nguyên nhân và thay đổi quy mô doanh nghiệp Việt", ông Thiên đặt câu hỏi.
Theo vị chuyên gia này, đã đến lúc các nhà điều hành của Việt Nam cần nhấn mạnh đến khái niệm "Make in Vietnam" và "Make by Vietnam" bởi nó đồng nghĩa với việc làm ra bởi người Việt Nam, bởi giá trị gia tăng từ công nghệ Việt, kể cả công nghệ đi mua nhưng là ý chí của người Việt.
Ông Thiên cho rằng, khái niệm trên hoàn khác với khái niệm "Made in Vietnam", cái này có nghĩa là bao gồm tất cả sản phẩm được làm ra ở Việt Nam, nhưng bao gồm cả doanh nghiệp nước ngoài, độc lập và có chuỗi sản xuất riêng. Họ vào Việt Nam chủ yếu tận dụng các FTAs để xuất khẩu, lấy giá trị thặng dư, không chuyển giao công nghệ, không xây dựng chuỗi liên kết giá trị, sản phẩm...
TS Thiên khẳng định: Tách rời khái niệm không phải để có ý phân biệt, chia lợi ích mà để chúng ta nhìn rõ bản chất công nghệ Việt, năng lực người Việt ở đâu trong bản đồ giá trị để chúng ta soi chiếu, đánh giá và cố gắng. Thời đại 4.0, tiếp cận công nghệ, khoa học dễ dàng hơn, chỉ quan trọng là ta có mua được công nghệ đó, ứng dụng và thay đổi chính mình.
Ví dụ được ông Thiên chia sẻ là nhiều doanh nghiêp tư nhân hiện đang đối diện với Cách mạng công nghệ 4.0 và giờ họ không biết đi đâu về đâu.
"Hàng chục hãng taxi, hàng chục nghìn chiếc taxi thua Grab, thua một hệ điều hành, một phần mềm. Nếu việc xử lý cãi nhau giữa taxi truyền thống và Uber, Grab như này thì bao giờ mới giải quyết xong vấn đề phát triển của DN Việt Nam?", TS Thiên nói.
PGS, TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh, thời buổi công nghệ đi đầu, Cách mạng 4.0 đang phá vỡ mọi cấu trúc thặng dư và giá trị, vượt qua khuôn khổ luật pháp. Muốn đổi mới, không đi thụt lùi thì phải có luật và dám vượt qua rủi ro, mạo hiểm.
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia tài chính - tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước cho biết: Việt Nam là nền kinh tế rất mở, trong bối cảnh hiện nay rủi ro bên ngoài rất nhiều. Trong khi đó, nội tại, thể lực của kinh tế Việt Nam có tốt lên nhưng cũng có nhiều vấn đề cần giải quyết căn cơ, tận gốc.
Theo ông này, bối cảnh thương mại thế giới đang phức tạp, Việt Nam cần tăng khả năng chống chọi với cú sốc bên ngoài để tăng khả năng chống chịu trong tương lai như hiện tại là cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc có tác động lớn đến Việt Nam.
Ông Lực dẫn chứng hàng loạt vấn đề mà các nhà điều hành của Việt Nam cần khắ phục như: Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam còn chậm, tiềm ẩn rủi ro đối với một số cán cân vĩ mô, đây là vấn đề đáng lo ngại; Nợ công và nợ nước ngoài đã giảm nhưng có thể vượt ngưỡng nếu chúng ta không khéo điều hành;kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro, vấn đề là chấp nhận rủi ro và kiểm soát rủi ro.
An Linh
Dân Trí
***
Xuất khẩu của doanh nghiệp FDI chiếm gần 70% tổng kim ngạch xuất khẩu
Trị giá nhập của doanh nghiệp FDI cũng chiếm đến 57,4% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước. Ảnh minh hoạ |
Trong 4 tháng đầu năm 2019, trị giá xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt gần 55 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước và chiếm đến gần 70% tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam.
Theo báo cáo mới nhất từ Tổng cục Hải quan, sau 1/3 chặng đường của năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt gần 158 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 79,24 tỷ USD, tăng 6,5% và nhập khẩu đạt 78,48 tỷ USD, tăng 10,9%.
Đáng chú ý, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong tháng 4/2019 đạt 25,45 tỷ USD, giảm 10,1% so với tháng trước đó.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, tổng trị giá xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI đạt gần 100 tỷ USD, tăng 5,6%, tương ứng tăng 5,32 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2018.
Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp này trong tháng 4 đạt 13,87 tỷ USD, giảm 14,1% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu của khối này trong 4 tháng năm 2019 lên 54,92 tỷ USD, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước.
Như vậy, tính riêng trị giá xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đã chiếm gần 70% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Ở chiều ngược lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 4/2019 đạt 11,59 tỷ USD, giảm 4,8% so với tháng trước.
Tính chung 4 tháng, trị giá nhập khẩu của khối này đạt 45,07 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Trị giá nhập của doanh nghiệp FDI cũng chiếm đến 57,4% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
Từ những số liệu trên, theo tính toán của Tổng cục Hải quan, cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 4/2019 có mức thặng dư trị giá 2,28 tỷ USD.
Cán cân thương mại trong 4 tháng đầu năm 2019 của khối doanh nghiệp này đạt thặng dư 9,85 tỷ USD.
Duyên Duyên
VnEconomy'
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét